Giảo cỏ lam – Cỏ trường thọ
LTS: Ban Biên tập Tạp chí Thần kinh học mở mục Y tế cộng đồng để đóng góp cho sức khoẻ cộng đồng những kiến thức thông thường về Thần kinh giúp cho việc phòng, trị bệnh có hiệu quả..
Kỳ này, chúng tôi xin phép trích đăng bài Giảo cổ lam cây thốc đặc biệt cho tiểu đường, cao huyết áp và mỡ máu của PGS.TS Nguyễn Duy Thuần, Phó Giám đốc Học viện Y Dược học cổ truyền Việt Nam, Viện trưởng Viện nghiên cứu Y Dược học cổ truyền Tuệ Tĩnh.
I.TÌM HIỂU ĐÔI NÉT VỀ GIẢO CỔ LAM.
Giảo cổ lam là một trong những cây dược liệu cổ qúy hiếm được biết đến với nhiều tác dụng trong y học. Dược liệu này đã được sử dụng từ rất lâu đời ở các nước như Nhật Bản, Ấn Độ, Indonexia, Triều Tiên và Trung Quốc với các tên gọi khác như Cỏ Trường sinh, cỏ Thần kỳ…, Sâm phương nam, Sâm năm lá (Ngũ diệp sâm).
Từ xa xưa, Giảo cổ lam đã được các triều đại phong kiến Trung Hoa sử dụng để tăng cường sức khoẻ, kéo dài tuổi thọ và làm đẹp. Cây này cũng được vua Tần thủy hoàng sử dụng với mong muốn trường sinh bất lão nên còn gọi Giảo cổ lam là cỏ Trường thọ. Nhiều năm sau đó, cây này đã được Y học dân gian Trung Hoa dùng để chữa chứng di tiểu ra máu, chống viêm, chống phù nề ở họng, cổ và làm tiêu khối u… Về sau, người ta còn nhận thấy sử dụng Giảo cổ lam còn làm giảm bớt các chứng của bệnh tăng huyết áp, đau nửa đầu, mất ngủ, đái tháo đường và béo phì … Kể từ đó, vị dược liệu này đã được ghi chép một các đầy đủ và chính thống trong cuốn “ Từ điển cây thuốc “của Trung Quốc làm tài liệu tra cứu khi sử dụng dược liệu để điều trị bệnh.
Trong sách cổ cũng như kinh nghiệm dân gian thì Giảo cổ lam được kiểm chứng là có những tác dụng sau:
Ba chống: chống U, chống Lão hoa, chống Mệt mỏi.
Ba giảm: Giảm béo, giảm Căng thẳng, giảm Nám Xạm da.
Năm tốt: ăn ngủ tốt, tiêu hoá tốt, da dẻ tốt sức khoẻ tốt và giúp tỉnh táo.
Vào năm 1976, người Nhật cũng tình cờ phát hiện ra Giảo cổ lam khi nghiên cứu một bộ lạc sống trên vùng núi cao có tuổi thọ bình quân là rất cao mà nguyên nhân là do người dân nơi đây đã dùng cây này chế biến làm trà uống hàng ngày để tăng cường sức khoẻ. Người Nhật gọi Giảo cổ lam với cái tên là Phúc âm thảo.
Tại Việt Nam, vào năm 1997, khi tiến hành cuộc khảo sát dược liệu tại Fanxipan – ngọn núi cao nhất và có nhiều nguồn tài nguyên đa dạng phong phú nhất ở nước ta, các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện một quần thể rộng lớn cây Giảo cổ lam mọc hoang ở độ cao 1500m thuộc dãy Hoàng Liên Sơn. Theo các thông tin về cây thuốc do một tộc trưởng sống ở vùng núi này cung cấp thì người dân ở đây đã dùng cây này từ nhiều đời nay, chủ yếu để tăng lực, chống mệt mỏi khi đi rừng, ngăn ngừa say rượu và làm tỉnh cơn say. Cây cũng đặc biệt tốt cho phụ nữ sau khi sinh đẻ… Người dân thường thái nhỏ và phơi trên nóc các bếp lửa đun nấu để cho khô. Mỗi nhà có chừng 10kg cây khô để sử dụng quanh năm. Mẫu cây này sau đó được gửi đếnViện Dược liệu Trung ương và đến các phòng nghiên cứu thực vật lớn trên thế giới để xác định mẫu cây, và được trả lời với cùng một kết quả.
Tên khoa học của Giảo cổ lam là Gynostemma pentophylium thuộc họ Bầu bí, tiếng dân tộc gọi là Rền toóng. Đây là dạng cây có thân mảnh, leo nhờ tua cuốn đơn ở nách lá. Cây đực và cây cái riêng biệt, lá khép kín hình chân vịt. Cụm hoa hình chùy mang nhiều hoa nhỏ màu trắng, các cánh hoa rời nhau xoè hình sao bao phấn dính thành đĩa, bàu có 3 vòi nhụy. Quả Giảo cổ lam khô hình cầu, đường kính 5-9mm, khi chín màu đen. Loại cây này mọc nhiều ở độ cao 2000m so với mặt nước biển, trong các khu rừng thưa, ẩm thấp, khí hậu lạnh quanh năm, cây có ở một vài tỉnh miền núi phía Bắc nước ta.
GS.TS Phạm Thanh Kỳ đã chủ trì nghiên cứu và làm rõ tác dụng của Giảo cổ lam với sự phối hợp nghiên cứu giữa Viện Dược liệu Trung ương, trường Đại học Y khoa của Thụy điển.
II. NHỮNG TÁC DỤNG ĐẶC BIỆT CỦA GIẢO CỐ LAM VỚI SỨC KHOẺ CON NGƯỜI. Sau hơn 10 năm nghiên cứu về Giảo cổ lam, các nhà khoa học Việt Nam đã thấy có nhiều hoạt chất giống Nhân Sâm nên Giảo cổ lam còn được gọi là Ngũ Diệp Sâm (Sâm năm lá), Sâm nam… và khi uống Giảo cổ lam cũng có cảm giác như uống Nhân sâm, đó là cảm giác trước đắng sau ngọt. Ngoài ra trong Giảo cổ lam còn chứa các flavonoid (hoạt chất sinh học có tác dụng chống lão hoá), các acid amin tan trong nước, các Vitamin và nhiều nguyên tố vi lượng như kẽm, sắt, selen và đặc biệt rất giàu canxi hứu cơ
Giảo cổ lam giúp làm giảm cholesterol trong máu, ngăn ngừa xơ vữa động mạch. Những đánh giá bước đầu về tác dụng làm giảm cholesterol-máu đã được tác giả Phạm Thanh Kỳ công bố trên Tạp chí Dược liệu năm 1999 (tác giả đã thử nghiệm trên chuột, đã gây rối loạn mỡ máu bằng cách cho chuột ăn chất giàu lipid… và thấy khi cho chuột uống Giảo cổ lam trong 30 ngày làm giảm cholesterol toàn phần 71% so với nhóm không sử dụng dược liệu này. Một nghiên cứu khác của tác giả Samer Megalli ở Đại học Sydney (2005) cũng khẳng định tác dụng làm giảm lượng triglycerid trong máu 85%, cholesterol toàn phần 44% và giảm lượng LDL 35%. Tác dụng này gần như tương đương với atorvastatin là thuốc được ưu tiên lựa chọn hàng đầu cho bệnh nhân rối loạn mỡ máu hiện nay.
Sở dĩ Giảo cổ lam hạ mỡ máu mạnh là do các chất saponin hàm lượng cao trong Giảo cổ lam đã “ tóm lấy các hạt mỡ máu lơ lửng trong mạch máu” và kéo chúng vào trong tế bào để cơ thể chuyển hoá thành năng lượng. Chất saponin trong giảo cổ lam có đặc tính “tảy rửa” các chất béo mạnh và làm giảm độ nhớt của máu, do vậy thường xuyên uống Giảo cổ lam sẽ làm trơn láng thành mạch, bào mòn dần các mảng xơ vữa bám trong lòng mạch, giúp máu lưu thông dễ dàng hơn, tăng cường máu lên não. Đây là lý do Giảo cổ lam giúp tỉnh táo, sảng khoái, giúp dễ ngủ và ngủ sâu.
Giảo cổ lam giúp ổn định đường huyết, tăng bài tiết Insulin và tăng sự nhạy cảm của tế bào với Insulin.
Các chất trong Giảo cổ lam không chỉ có tác dụng “làm sạch” các loại cholesterol xấu trong máu mà còn có tác dụng ổn định đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường typ 2. Năm 2004, Viện Dược liệu Trung ương kết hợp với Viện nghiên cứu Karolinska (Thụy Điển) đã tìm ra hoạt chất mới về cây Giảo cổ lam, có tác dụng kích thích tạo Insulin. Các nhà khoa học đã chứng minh được hoạt chất này là một saponin mới và đặt tên là Phanosid (lấy tên nhà khoa học Việt Nam Đào Văn Phan, trưởng nhóm nghiên cứu). Khi thử nghiệm trên chuột, người ta thấy phanosid đáp ứng với từng nồng độ glucose khác nhau. Điều thú vị là độ nhạy của tế bào đảo tụy với phanosid khi nồng độ glucose cao tốt hơn khi ở nồng độ thấp. Điều này có nghĩa là Giảo cổ lam hầu như không có tác dụng hạ đường huyết khi nồng độ đường trong máu ở ngưỡng giới hạn bình thường mà chỉ làm giảm đường huyết trên đối tượng có nồng độ đường huyết cao.
Từ thành công ban đầu tìm ra phanosid năm 2007, các tác giả này đã tìm ra cơ chế kiểm soát đường huyết của phanosid là do khả năng kích thích tiết Insulin từ đảo tụy. Và đến năm 2010, một cuộc thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân tiểu đường typ 2 đã được thực hiện. Kết quả cho thấy sau khi sử dụng tra Giảo cổ lam với mức liều 6g/ngày, sau 4 tuần thì nồng độ đường trong máu giảm 3mmol/l so với trước khi sử dụng, đồng thời giảo cổ lam còn giúp cải thiện tình trạng mỡ máu của bệnh nhân tiểu đường
Giảo cổ làm giúp giảm béo
Năm 2012, nghiên cứu của Rehman Gauhar và cộng sự đã khẳng định dịch chiết từ cây giảo cổ lam có tác dụng hoạt hoá men AMPK – một men có vai trò quan trọng quá trình điều hoà chuyển hoá năng lượng của cơ thể, làm thúc đẩy quá trình oxy hoá chất béo và tăng cường chuyển hoá đường, đạm, mỡ trong cơ thể, giúp cải thiện tình trạng béo phì. Nghiên cứu lâm sàng trên 80 bệnh nhân béo phì,Tạp chí Béo phì của Mỹ, tháng 6.2013 (The Journal of Obesity) cho thấy sử dụng Giảo cổ lam trong 12 tuần làm giảm đáng kể cân nặng của người béo phì do làm giảm lượng mỡ dư thừa ở vùng bụng, vùng đùi và ở cơ, đồng thời không nhận thấy bất kỳ một tác dụng không mong muốn nào.
Với các trường hợp béo phì do rối loạn chuyển hoá lipid (béo bệu, người phù thũng…) thì Giảo cổ lam tỏ ra đặc biệt hiệu quả, có thể giảm từ 5 – 10kg chỉ sau 1 tháng sử dụng. Đó là vì các chất saponin trong Giảo cổ lam có tác dụng làm bình thường hoá các hoạt động tế bào, dọn dẹp các gốc tự do trên bề mặt màng tế bào (gốc tự do là thủ phạm gây biến dạng màng tế bào dẫn đến các rối loạn chuyển hoá), khi các tế bào hoạt động bình thường trở lại sẽ giúp tiêu thụ năng lượng dư thừa tốt hơn, cơ thể khoẻ hơn. Đây là lý do dùng Giảo cổ lam thấy trẻ lại, người khoẻ ra và kéo dài tuổi thọ.
Tác dụng chống oxy hoá tăng cường miễn dịch và kháng U.
Giảo cổ lam còn biết đến với tác dụng chống oxy hoá, khả năng dọn dẹp các gốc tự do trong cơ thể, là nguyên nhân gây đột biến, hủy hoại tế bào, gây ung thư và tăng nhanh quá trình lão hoá của cơ thể. Tác dụng này của Giảo cổ lam được cho là do sự có mặt của các flavonoid có trong cây. Các chất này còn có khả năng dọn dẹp các sản phẩm của quá trình chuyển hoá chất béo của cơ thể, thu gom các chất gây độc tế bào, ngăn ngừa xơ vữa động mạch, tai biến mạch máu não và các tổn thương do bức xạ. Flavonoid còn có có tác dụng chống độc, làm giảm thương tổn gan, bảo vệ chức năng gan.
Nghiên cứu của Phạm Thanh Kỳ và cộng sự (Tạp chí Dược học 5.2011) đã chứng minh chiết xuất Giảo cổ lam có tác dụng ngăn ngừa và kìm hãm sự phát triển khối U một cách rõ rệt trên mô hình gây U ở chuột. Một đề tài khác của Bộ môn Miễn dịch, Đại học Y Hà Nội cho thấy Giảo cổ lam tăng Miễn dịch mạnh. Các nhà khoa học Trung Quốc sau đó đã tìm ra chất làm tăng miễn dịch mạnh trong giảo cổ lam – đó là các Polysaccharid một loại đường thiên nhiên. Điều này đã làm sáng tỏ kinh nghiệm dùng giảo cổ lam cho những bệnh ung thư của người dân Nhật và Trung Hoa.
Đặc biệt năm 2012, GS.TS Phạm Thanh Kỳ và các cộng sự Hàn Quốc đã lần đầu tiên tìm thấy 7 hoạt chất saponin mới trong cây giảo cổ lam của Việt Nam đặt tên là Gypenosid VN 01-07. Các chất này sau đó đã được thử nghiệm trên tế bào ung thư phổi, đại tràng, vú và tử cung cho kết quả đặc biệt. Đó là khả năng tiêu diệt mạnh các tế bào ung thư nêu trên. Điều này chứng tỏ Giảo cổ lam của Việt Nam có chất lượng đặc biệt so với Giảo cổ lam của Trung Quốc, Thái Lan… Hiện nay, các chế phẩm từ Giảo cổ lam đã được sử dụng chính thức trong hỗ trợ điều trị ung thư tại Mỹ, Đức, Nga, Nhật, Trung quốc…với tác dụng tăng miễn dịch cho bệnh nhân, (nhất là bệnh nhân xạ trị, truyền hoá chất), giúp bệnh nhân ung thư tỉnh táo hơn, khoẻ hơn, ăn ngủ tốt hơn và kéo dài thời gian sống.